Cuộc sống

TIỀN THÂN CỦA KAWASAKI H2 VARIANT CHÍNH LÀ KAWASAKI H2 MACH IV – NỔI TIẾNG VỚI BIỆT DANH “WIDOWMAKER”. NỀN MÓNG ĐỂ TẠO NÊN CHIẾC XE NHANH NHẤT THẾ GIỚI KAWASAKI NINJA H2R.

Kawasaki H2 Mach IV | Ảnh: Silodrome

Từ những năm 70, ngành sản xuất mô tô đã luôn tìm cách để sản xuất những chiếc mô tô vừa lớn hơn. Lại vừa có thể đi nhanh hơn như sê-ri Formula 750. Các nhà sản xuất như Ducati, Norton, Suzuki, Kawasaki và Yamaha đã chú trọng nhiều hơn vào những mẫu mô tô 750cc. Năm 1991, chiếc xe Kawasaki H2 Mach IV ra đời đã thay đổi hoàn toàn cuộc chơi.

KAWASAKI H2 MACH IV

Kawasaki H1 Mach III | Ảnh: Motorcycle Classics

Loại xe Kawasaki H2 Mach IV được bán trong khoảng năm 1971 đến năm 1975 là phiên bản nâng cấp của Kawasaki H1 Mach III 500cc sản xuất năm 1969. Xe H2 Mach IV được trang bị động cơ hai thì ba xi-lanh với dung tích 748cc, có công suất tối đa 74 mã lực tại 6800 vòng /phút. Trọng lượng của nó là 205kg, chỉ hơn xe H1 Mach III 8kg. Tuy nhiên, tỷ lệ công suất trên trong lượng chỉ  là 1 mã lực trên 2.6kg. Bước đột phát mới của động cơ 750cc trên Mach IV là có mô men xoắn thấp hơn và công suất từ 3500 vòng/phút lên tới 7500 vòng/phút khi xe chuyển hướng. Điều này nổi trội hơn hẳn động cơ 500cc của Mach III. So với xe Ninja H2R bây giờ thì Mach IV là dòng xe môtô tăng tốc nhanh nhất thời bây giờ và có thể đạt tới 126 mã lực.

Tuy nhiên, khung giá đỡ nhẹ hình ống của Kawasaki H2 Mach IV có thể bị cong méo dễ dàng khi gặp những góc cua khó vì nó không thể chịu được sức mạnh của động cơ. Toàn trọng lượng của H2 Mach IV sẽ tác động lên phía sau xe, cùng tay quay ngắn, các tay đua đã phải rất cẩn thận khi vào cua.

Mặc dù, H2 Mach IV được coi là chiếc xe nhanh nhất thời bấy giờ cho những tay đua giàu kinh nghiệm, nhưng nó cũng được mệnh danh là “Widowmaker”. Tên này đặt ra vì nó có khả năng giết chết bất kỳ tay nào đua thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên, theo thời gian, Kawasaki bắt đầu dần khắc phục được những vấn đề này.

Trong quá trình sản xuất đợt 2 năm 1972, Kawasaki đã cho ra hệ thống phanh đĩa đơn một pít-tông vì sự nhỏ gọn và đơn giản. Không những thế, người chơi xe hoàn toàn có thể thêm vào phanh đĩa thứ hai. Chiếc xe có trang bị một bộ giảm xóc bằng thủy lực để cải thiện khả năng xử lý và hệ thống đánh lửa xả dầu cùng tụ điện (CDI). Chiếc xe này nổi bật với phần đuôi xe đua có đèn hậu và phần yên nhỏ phía sau.

Related Post

Kawasaki H1 and H2 | Ảnh: MCN

BIỂU TƯỢNG KAWASAKI H2 A/B/C

Vào năm 1973, Kawasaki đã cố gắng nâng cao điều tiết nhiên liệu bằng những thay đổi cơ học nhỏ như bơm phun dầu, thời gian cổng xi lanh và phản lực của bộ chế hòa khí. Mô hình năm 1973 hay còn gọi H2A có mức tiêu thụ nhiên liệu ít đi nhưng điện năng lại giảm mạnh.

H2A Mach IV | Ảnh: Bikes Restored

Phiên bản H2B được ra mắt năm 1974 đã có những thay đổi đáng kể. Đuôi xe được làm thon thả và cần điều khiển dài hơn nhằm nâng cao sự ổn định. Động cơ trong hệ truyền động được nâng cấp để cấp năng lượng hiệu quả hơn, điều này lại giảm công suất xuống còn 71 mã lực tại 6.800 vòng / phút. Không giống như các mẫu trước đây chỉ có một hệ thống phun dầu duy nhất, H2B có hai hệ thống riêng biệt. Các đường dẫn nhỏ riêng biệt sẽ cấp dầu cho bộ chế hòa khí từ một nguồn chính. Đối với việc bơm dầu vào vòng bi thì có một bộ ba đường dẫn khác. Trong H2B và phiên bản nâng cấp H2C sau này, bộ giảm xóc được chuyển sang bên trái.

H2B Mach IV | Ảnh: Classic-Motorbikes

H2C Mach IV | Ảnh: Classic-Motorbikes

Nhìn chung lại, Kawasaki Ninja H2 ngày nay và H2 Mach IV năm 1971 đều có chung một bộ DNA và cùng được sản xuất để đi được nhanh hơn và nổi bật theo cách của riêng chúng.

Phiên bản nâng cấp Kawasaki Ninja H2 | Ảnh: Kawasaki

Nguyen Hai

Share
Published by
Nguyen Hai
Tags: top